Bài này nói về vấn đề hệ thống Svarc. Việc không hiểu
luật pháp thì không thể xin lỗi được và mức phạt cho công ty và các cá nhân tới
cỡ hàng triệu curon. Đây là nhìn nhận của một nữ luật sư.
Nhãn liên
quan:
·
Luật
về thất nghiệp
·
Luật
lao động
·
Luật
về người làm thuê
·
Các
hoạt động phụ thuộc
Khái niệm hệ
thống Svarc không có trong định nghĩa của luật pháp Séc. Đây là khái niệm phát
triển trong thực tế mà sự xuất hiện của nó đã gây ra sự phản ứng và sau đó còn
là sự sửa đổi luật. Một cách đơn giản hơn, có thể nói đó là thực hiện công việc
phụ thuộc mà không thông qua quan hệ luật lao động . Nói một cách khác, đó là
quan hệ lao động bí mật, tức là một cá thể , doanh nghiệp tư nhân( nhân viên ảo
/giả/) thực hiện hoạt động kinh tế cho một
cá thể khác (người thuê việc giả /ảo /) không trên cơ sở quan hệ luật lao động
mà trên quan hệ luật khác. Thông thường đó là quan hệ luật thương mại mà cả hai chủ lao động ảo và người làm thuê ảo xem
ra như những doanh nghiệp. Người làm thuê ảo hoạt động thông thường như người
kinh doanh độc lập trên cơ sở giấy phép hành nghề.
SỬA LUẬT VỀ LAO ĐỘNG BẤT HỢP PHÁP
Cơ sở để xác định
về hệ thống Svarc là khái niệm về công việc phụ thuộc mà định nghĩa của nó có trong bộ luật lao động có hiệu
lực đến 31.12.2011. Từ 01.01.2012 có bổ sung và chính xác hoá khái niệm này. Luật
lao động mới định nghĩa về công việc phụ thuộc như sau đây:
Công việc phụ
thuộc là công việc được thực hiện theo các dấu hiện:
·
trong
quan hệ cấp trên của người chủ và cấp dưới của người làm thuê
·
bằng
tên của người chủ
·
theo
những chỉ dẫn của người chủ và
·
người
làm thuê tự làm công việc cho người thuê
Các điều kiện
để làm công việc phụ thuộc là:
·
để
nhận lương, thưởng bởi công việc
·
chi
phí và trách nhiệm đều do phía người chủ
·
trong
thời gian lao động
·
tại
địa điểm của người chủ hoặc một địa điểm khác được thoả thuận
Theo điều §3
luật lao động, công việc phụ thuộc chỉ có thể thực hiện trên cơ sở quan hệ luật
lao động, nếu không bị chi phối bởi những
qui định luật pháp đặc biệt ( thí dụ luật số 218/2002, Sb về dịch vụ của công
chức trong các cơ quan quản lý và về tiền thưởng cho các công chức và các nhân
viên khác trong cơ quan đó ( luật dịch vụ) và các điều khoản bổ sung, hoặc luật
số 361/2003 Sb về hợp đồng dịch vụ của các nhân viên cứu hoả, cùng các văn bản
sửa đổi). Những quan hệ cơ bản của luật lao động được hiểu là biên chế lao động
và các quan hệ luật dựa trên những thoả thuận về công việc ngoài biên chế lao động.
Tiêu chí trọng tâm để phân biệt công việc phụ thuộc theo, tài liệu chuyên ngành
(Jakub J. và tập thể - luật lao động
2012, xuất bản lần thứ 8 có bổ sung, nhà xuất bản Praha ANAG, 2012) là hoạt động
bằng tên của người chủ, dựa theo sự chỉ huy của người chủ và dựa trên trách nhiệm
luật pháp và trách nhiêm kinh tế của người đó. Những hoạt động được thực hiện bởi một cá thể cho một cá thể khác hoặc cho một
pháp nhân khác phải được thực hiện trong
quan hệ luật lao động.
Trong trường
hợp các hoạt động mà không có đặc tính của công việc phụ thuộc , có thể không
tiến hành các hoạt động bằng nhân viên chính thức mà bảo đảm bằng những phương
tiện khác, thí dụ như hợp đồng về công
trình, hợp đồng bắt buộc hoặc hợp đồng nào
khác mà các chủ thể của hợp đồng này sẽ không chịu ảnh hưởng các điều sửa đổi của
luật lao động mà chỉ chịu ảnh hưởng các điều của luật công dân hoặc luật thương
mại.
Điểm mới của
năm 2012 là bổ sung khái niệm „công việc bất hợp pháp“, nó nằm ở điều §
5, chữ c của luật thất nghiệp. Công việc bất hợp pháp từ 01.01.2012 được hiểu như sau:
- cá thể làm công việc phụ thuộc ngoài quan hệ luật lao động,
- cá thể người nước ngoài làm việc trái với giấy phép lao động hoặc
không có giấy phép lao động, hoặc trái với việc cho phép cư trú với mục đích
lao động trong một số trường hợp đặc biệt, hoặc trái với thẻ xanh,
- cá thể người nước ngoài làm việc cho một pháp nhân hoặc cá thể khác
không có phép cư trú hợp pháp tại Cộng hoà Séc .
Định nghĩa trên
thể hiện sự sửa đổi một cách cơ bản từ 01.01.2012 về cách nhìn đối với lao động
bất hợp pháp và một cách rõ ràng nó đánh
vào cả hệ thống Svarc. Cho đến ngày này thì công việc bất hợp pháp chỉ là những
công việc mà cá thể làm việc mà không có quan hệ theo luật lao động hoặc không
có một hợp đồng nào khác. Tức là lúc ấy có thể làm việc hợp pháp cho pháp nhân hoặc cá thể khác như là nhân
viên, hoặc như là doanh nghiệp cá thể tự chủ (OSVČ). Làm việc trên cơ sở khác với
hợp đồng theo luật lao động ,( thí dụ theo luật thương mại) cho đến ngày
31.12.2011 vẫn ổn và không thể bị trừng phạt như là làm việc bất hợp pháp. Luật
sửa đổi ngắm đến kỹ hơn đến các trường hợp khi không hề có một hợp đồng nào giữa
doanh nghiệp cá nhân tự chủ hoặc một cá thể
nào đó làm cho một người chủ thuê.
NHỮNG KIỂU VI PHẠM CÓ THỂ
Như đã viết ở
trên, công việc phụ thuộc không thể thực hiện kiểu nào khác hơn là quan hệ theo
luật lao động. Nếu các doanh nghiệp cá thể trong quan hệ với các cá thể khác mà
có các biểu hiện của công việc phụ thuộc như nêu ở trên, đặc biệt là lấy danh
nghĩa của người chủ thuê việc, thực hiện theo lệnh của người đó, làm việc trên
trách nhiệm kinh tế và trách nhiệm luật pháp của người đó thì đó là những vi phạm.
Yếu tố định nghĩa của công việc phụ thuộc được xét chính là tính chất của công
việc thực hiện (đặc trưng là công việc thực hiện tại một chỗ chỉ dành riêng cho
một chủ thuê). Ngược lại, công việc không gọi là phụ thuộc, nếu công việc thuộc về chuyên
ngành, hoạt động trong thời gian ngắn, hoặc hoạt đọng không có hệ thống, mà kết quả làm
ra chi phối bởi các yếu tố không phụ thuộc vào người giao công việc (thí dụ công
việc theo mùa, công việc phụ thuộc vào thời tiết, công việc được thực hiện một
lần do có đơn đặt hàng v.v…) Giao dịch bằng tên của chủ thuê chỉ có thể thực hiện
bởi nhân viên. Vi phạm qui tắc này, khi doanh nghiệp không phải là nhân viên mà lấy danh nghĩa tên tuổi của của ông ty để giao dịch.
Rõ ràng hơn
thí dụ khi doanh nghiệp dùng các vizit của công ty, viết E-mail với mẫu trang trí của công ty hoặc mang đồng phục của công ty.
Nếu hoạt động của doanh nghiệp cá thể mà cần đàm phán dưới danh nghĩa công ty
(của người chủ thuê ảo), như kiểu hợp
đồng bắt buộc (mandátní), thì doanh nghiệp nên có giấy uỷ quyền để giải quyết
những giao dịch về luật với danh nghĩa của công ty (chủ thuê ảo).
Dấu hiệu quan
trọng để thanh tra lao động kiểm tra là doanh nghiệp cá thể nằm trong sơ đồ cấu trúc của chủ thuê ảo.
Doanh nghiệp hoạt động cho người chủ thuê ảo phải trở thành đối tượng không phụ
thuộc. Công ty chỉ có thể xác định anh
ta như là một cá thể giao dịch mà họ qui định cho anh ta một qui mô hoạt động. Công
ty không được phép giao dịch như là cấp trên trong danh nghĩa khi trao công việc
cho doanh nghiệp, nếu không nó sẽ là dấu
hiệu của công việc phụ thuôc.
Theo một vài
quan điểm, có thể là kiểm ra sẽ nhắm vào các trường hợp mà hoá đơn thanh toán
luôn là số tiền như nhau. An toàn hơn, tiền thưởng của doanh nghiệp nên thoả
thuận luôn lên xuống phụ thuộc vào công suất của công việc. Có thể suy ra rằng
bất cứ sự hoạt động dài hạn cho một chủ thể
sẽ là yếu tố đập ngay vào mắt người kiểm tra. Dấu hiệu công việc phụ thuộc
cũng có thể coi về cơ bản như quan hệ
lao động bằng hợp đồng với thời gian không xác định. Biện pháp ngăn ngừa là đàm
phán để giới hạn hoạt động, thí dụ trên một dự án có hạn thời gian xác định nào
đó và doanh nghiệp cá thể sẽ ở vị thế tốt hơn nếu anh ta có thể đệ trình ra thu nhập
từ nhiều chủ thuê hơn là từ một ông chủ.
Yếu tố tiếp
mà thanh tra lao động hướng tới là nội dung hợp đồng ký giữa doanh nghiệp cá thể
với chủ thuê ảo. Nếu hợp đồng có điều khoản đặc trưng như hợp đồng lao động,
thí dụ như doanh nghiệp cá thể được nhận
lương khi không có việc (tương tự như chế độ phép hoặc lương giảm trong thời
gian ốm) thì đó là dấu hiệu của che dấu
quan hệ lao động. Những điều đó không có trong quan hệ luật kinh doanh. Tương
tự như vậy, yếu tố cạnh tranh trong hợp đồng, ví dụ như hạn chế doanh nghiệp cá thể hoạt động
cho các chủ khác thì cũng có thể coi như đó là sự che dấu quan hệ theo luật lao
động. Thanh tra lao động tất nhiên sẽ thận trọng nếu theo dõi là doanh nghiệp
cá thể có điểm danh thời gian đến và thời
gian rời công việc ( ghi thời gian làm việc) hoặc vắng mặt (nghỉ phép)..
Một chứng minh nữa cho hệ thống Svarc là doanh nghiệp dùng
trang thiết bị thuộc sở hữu của người chủ
thuê ảo hoặc hoạt động tại tổng hành dinh hoặc tại chi nhánh của chủ thuê - một
đặc điểm rất đặc trưng của người làm thuê. Trong quan hệ của luật thương mại thì
phải sửa như: cho thuê dụng cụ, máy móc, trang thiết bị, thậm chí kể cả mặt bằng
sản xuất của chủ thuê ảo.v.v…Về điểm này, toà án tối cao Cộng hoà Séc( tuyên án
của toà án tối cao Cộng hoà Séc , hồ sơ
21C do 920/2010) vào ngày
16.06.2011 phán rằng khi mà tài xế lái
xe của chủ thuê ảo có mang nhãn hiệu của
chủ, chủ trả tiền bảo dưỡng xe, bảo hiểm xe
và xăng mua bằng thẻ mua
xăng của chủ thì hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp này không phải trên danh nghĩa của chính mình, không phải chịu
trách nhiệm của chính mình, mà đó chỉ là hợp đồng lao động trá hình.
Sự phụ thuộc
của công việc được suy xét theo tính chất
của công việc được thực hiện, theo các dấu hiệu và bối cảnh xung quanh và dựa
theo là việc ký hợp đồng lao động đem lại lợi ích cho cả hai bên. Chỉ dẫn của bộ
Tài chính chỉ ra những dấu hiệu thông thường nhất của quanh hệ lao động phụ thuộc
sau đây:
·
người
trả tiền trực tiếp hoặc gián tiếp đưa ra các nhiệm vụ, lãnh đạo và kiểm tra
doanh nghiệp tự chủ và hứng chịu trách nhiệm liên quan tới hoạt động đó.
·
doanh
nghiệp cá thể có quan hệ với người trả tiền có địa vị tương tự như nhân viên.
·
tiền
nhận của doanh nghiệp được tính trên cơ sở thời gian của công việc hoặc tiền ấy
tính tương tự như người có quan hệ lao động.
·
vật
liệu, dụng cụ lao động, máy móc và trang thiết bị để hoạt động là do người trả
tiền cung cấp,
·
quan
hệ của người trả tiền với doanh nghiệp là dài hạn hoặc có hệ thống hoặc hoạt động
của doanh nghiệp chỉ cho một chủ với thời gian dài hạn.
SỰ TRỪNG PHẠT VÀ KIỂM TRA
Vi phạm qui định trong luật về thất nghiệp , mức phạt
cho cá nhân, doanh nghiệp cá thể và pháp nhân
sẽ tăng kể từ 01.01.2012 :
Phạt các cá thể và doanh nghiệp cá thể
Vi phạm
|
Mức phạt
|
Môi giới việc làm không giấy phép
|
1 000 000 Kč
|
Làm việc bất hợp pháp
|
100 000 Kč
|
Tạo công việc bất hợp pháp
|
5 000 000 Kč
|
Không khai báo về thuê việc
|
100 000 Kč
|
|
|
|
|
Phạt các pháp nhân:
Vi phạt
|
Mức phạt
|
Môi giới việc làm không phép
|
2 000 000 Kč
|
Tạo việc làm bất hợp pháp
|
10 000 000 Kč
|
Không khai báo việc làm
|
100 000 Kč
|
|
|
Các thanh tra của cơ quan lao động sẽ tiến hành kiểm
tra công việc bất hợp pháp. Các nhân viên này sẽ vào nơi làm việc, yêu cầu đưa
các giấy tờ, các thông tin các các giải thích cần thiết trong hạn thời
gian nào đó. Sau đó họ có quyền yêu cầu những đối tượng bị kiểm tra có mặt để
thảo luận về kết quả kiểm tra, những động thái cần thiết tiếp theo để tạo điều
kiện tiến hành kiểm tra dứt điểm và nhanh . Các đối tượng bị
kiểm tra có nghĩa vụ tạo điều kiện cho việc tiến hành kiểm tra và cung cấp các bổ
sung cần thiết.
Các nhân viên
của cơ quan kiểm tra có quyền yêu cầu các
cá nhân đang làm việc tại hiện trường trình căn cước và chứng mình là họ đang làm
việc trên cơ sở của quan hệ luật lao hay trên cơ sở hợp đồng nào khác.
Đối với người
nước ngoài, các nhân viên này yêu cầu giấy phép lao động, viza cư trú hợp pháp,
thẻ xanh lao động, nếu thấy cần thiết theo qui định luật pháp. Không hoàn thành
các nghĩa vụ trên, các cá nhân có thể bị phạt hành chính tới mức 10 000
Kč, và nếu lặp đi lặp lại nhiều lần, mức phạt có thể tới 100 000 Kč.
Cơ quan kiểm
tra khi thấy các vi phạm sẽ yêu cầu các cá nhân bị kiểm tra khử những sai sót
trong thời hạn nhất định và đưa ra bằng văn bản các biện pháp sửa chữa có thể
chấp nhận được. Cơ quan kiểm tra có thể yêu cầu cá nhân bị kiểm tra đến văn phòng
cơ quan đệ trình các chứng từ cần cho việc
kiểm tra. Các cá nhân bị kiểm tra này có nghĩa vụ tuân thủ việc triệu tập, nếu
không chứng minh được những cản trở quan trọng ngăn cản việc thực hiện nghĩa vụ
này trong thời hạn xác định.
Các pháp nhân
hoặc các doanh nghiệp tư nhân có nghĩa vụ lưu giữ tại nơi làm việc các bản sao
giấy tờ chứng minh sự tồn tại của quan hệ luật lao động, bản sao chứng minh quyền
cư trú của người nước ngoài tại cộng hoà Séc, trong suốt thời gian đang thuê việc
và trong cả thời gian 3 năm sau, kể từ ngày kết
thúc công việc của người nước ngoài tại nơi làm việc đó.